Cổ phiếu ngân hàng bị bán ra mạnh dù kết quả kinh doanh tốt do áp lực trái phiếu doanh nghiệp sắp đáo hạn. Nhiều cổ phiếu thậm chí giảm xuống vùng thấp nhất trong vòng hai năm qua do nhà đầu tư lo ngại rủi ro về dòng tiền.
Ảnh minh họa
Áp lực kỳ hạn trái phiếu
Kể từ khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp bắt đầu hoạt động từ năm 2005, tổng giá trị phát hành đến đầu quý III / 2022 đạt gần 2.500.000 tỷ đồng với hơn 5.000 đợt phát hành, đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Quy mô thị trường tăng mạnh gấp 140 lần, đạt khoảng 1.600.000 tỷ đồng, tương đương 18,3% GDP và bằng 14,2% dư nợ tín dụng toàn ngành.
Tuy nhiên, thị trường trái phiếu doanh nghiệp chỉ thực sự bùng nổ trong 3 năm trở lại đây, từ 2019 đến 2021.
Ở giai đoạn này, giá trị phát hành lên tới gần 1.600.000 tỷ đồng, chiếm 64% tổng lượng phát hành trong giai đoạn 2005-2022, khiến GDP tăng từ 7,3% năm 2018 lên gần 18,9% năm 2021.
Xét về cơ cấu ngành, nhóm ngân hàng chiếm tỷ trọng phát hành trái phiếu doanh nghiệp cao nhất lên tới 65%.
Tuy nhiên, sau một thời gian tăng trưởng nóng, giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp bất ngờ giảm mạnh trong quý II, khi Nghị định 153/2020 / NĐ-CP được xem xét sửa đổi, với mục tiêu bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, đồng thời. nâng cao chất lượng thị trường vốn.
Theo thống kê, trong 9 tháng cuối năm 2022, cả nước có 411 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trong đó có 389 đợt phát hành riêng lẻ, với tổng giá trị phát hành là 244.191 tỷ đồng, giảm 67,7% so với cùng kỳ năm trước.
Đến cuối quý 3, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp khoảng 1.300.000 tỷ đồng, tương đương 13% GDP năm 2021.
Ngay sau sự cố Tân Hoàng Minh, nhiều ngân hàng thương mại đã mua lại trái phiếu doanh nghiệp trước thời hạn.
Theo thống kê từ Công ty Chứng khoán Vietcombank (VCBS), giá trị trái phiếu doanh nghiệp được các doanh nghiệp mua trước lên tới 135.180 tỷ đồng sau 9 tháng đầu năm.
Trong đó, nhóm Ngân hàng TMCP đã mạnh tay mua lại trái phiếu doanh nghiệp trước hạn.
Chẳng hạn, Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BID) mua lại 12.672 tỷ đồng trái phiếu; Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB) mua lại 8.800 tỷ đồng; Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LPB) mua lại 8.000 tỷ đồng; Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội (SHB) mua lại 5.450 tỷ đồng; Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPB) mua lại 4.900 tỷ đồng; Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HDB) mua lại 4.798 tỷ đồng; Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB) mua lại VND, 700 tỷ đồng; Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) mua lại 2.900 tỷ đồng; và Ngân hàng TMCP An Bình (ABB) mua lại 2.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, do số lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong giai đoạn từ 2019 đến 2021 rất lớn nên áp lực đáo hạn trái phiếu vẫn rất lớn, chủ yếu cho các năm 2023 và 2024 với tổng giá trị lên tới 790.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 50% khối lượng trái phiếu doanh nghiệp đang lưu hành.
Trong quý 4 năm nay, sẽ có khoảng 85.000 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp sắp đáo hạn, trong đó ngân hàng chiếm 53,4%.
Theo VCBS, trong quý IV, Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (TCB) có giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn lớn nhất với 12.700 tỷ đồng.
Tiếp theo là Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPB) với 8.000 tỷ đồng; LPB với 6.080 tỷ đồng; VIB với 3.600 tỷ đồng; OCB với 2.000 tỷ đồng; Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VBB) với 2.000 tỷ đồng; HDB với 1.800 tỷ đồng; ABB với 1.600 tỷ đồng; BID với 1.178 tỷ đồng; Ngân hàng TMCP Bắc Á (BAB) với 1.000 tỷ đồng; và Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (MSB) với 800 tỷ đồng.
Các nhà đầu tư hoảng sợ
Trước áp lực lớn này, cổ phiếu ngân hàng TCB đã bị cổ đông bán ra mạnh và rơi xuống vùng giá thấp nhất hơn hai năm.
Tính từ đầu tháng 10 đến nay, TCB đã có 11 phiên giảm sàn, trong đó có 5 phiên giảm sàn. Giá cổ phiếu TCB cũng giảm mạnh, từ 32.500 đồng xuống 21.300 đồng, tương đương mức giảm 35%.
Tương tự, VPB có 7 phiên giảm giá, với giá cổ phiếu giảm từ 18.000 đồng xuống 15.400 đồng, tương đương mức giảm 15%.
LBP có 10 phiên giảm giá, giá cổ phiếu giảm từ 12.900 đồng xuống 9.350 đồng, giảm 28%; VIB có 10 phiên giảm giá và giảm từ 22.000 đồng xuống 18.850 đồng / cổ phiếu, giảm 15%.
OCB có 8 phiên giảm giá, giảm từ 15.300 đồng xuống 12.900 đồng / cổ phiếu và mất 16%; HDB có 10 phiên giảm giá, giảm từ 19.150 đồng xuống 15.950 đồng / cổ phiếu, giảm 17%; ABB có 10 phiên giảm giá, giảm từ 10.200 đồng xuống 7.800 đồng và giảm 24%; MSB có 9 phiên giảm điểm, giảm mạnh từ 16.550 đồng xuống 10.950 đồng / cổ phiếu và mức giảm mạnh 34%.
Việc nhóm cổ phiếu ngân hàng này bị giới đầu tư từ chối giao dịch là một hiện tượng bất thường. Thực tế, trái phiếu doanh nghiệp do ngân hàng phát hành rất thu hút nhà đầu tư, dù lãi suất phát hành bình quân không thuộc nhóm cao nhất.
Điều này cho thấy độ tin cậy và an toàn của hệ thống tài chính vẫn ở mức tương đối tốt so với mặt bằng chung của thị trường.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, lãi suất phát hành bình quân của các ngân hàng thuộc nhóm thấp nhất trên thị trường, bình quân 4,64% / năm.
Mức lãi suất này thấp hơn mức lãi suất của nhóm doanh nghiệp thương mại, dịch vụ cao nhất là 10,38 phần trăm / năm và nhóm doanh nghiệp kinh doanh bất động sản là 10,27 phần trăm / năm.
Hơn hết, với lãi suất phát hành thấp, kỳ hạn cứng và khối lượng phát hành chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng dư nợ, hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp của các ngân hàng vẫn trong trạng thái an toàn, dù chịu áp lực đáo hạn trong thời gian tới. Tương lai.
Tuy nhiên, sẽ không đúng nếu nói rằng các ngân hàng không chấp nhận rủi ro với trái phiếu doanh nghiệp, vì ngân hàng hiện là nguồn vốn chính của các doanh nghiệp bất động sản.
Đáng lo ngại hơn là các doanh nghiệp có số dư trái phiếu doanh nghiệp có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng.
Theo Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), với giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ đến cuối năm 2021 ước đạt 628.000 tỷ đồng, bằng khoảng 6% dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng, áp lực lên dòng tiền trả gốc trái phiếu doanh nghiệp đến hạn có thể vẫn ở mức cao trong thời gian còn lại của năm 2022.
Áp lực dòng tiền cao phát sinh trong ngắn hạn, trong khi tốc độ tiêu thụ hàng hóa giảm dẫn đến doanh nghiệp có số dư trái phiếu riêng lẻ cao rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng đến việc trả nợ ngân hàng.
Ngoài ra, việc nhà đầu tư cá nhân nắm giữ trái phiếu không có khả năng trả gốc và lãi đúng hạn cũng gián tiếp gây khó khăn cho dòng tiền.
Tiềm ẩn rủi ro nếu những cá nhân này có khoản vay tại ngân hàng nhưng không có dòng thu nhập ổn định.